An toàn truyền máu là gì? Các công bố khoa học về An toàn truyền máu

An toàn truyền máu là quá trình đảm bảo rằng quá trình truyền máu được thực hiện một cách an toàn, nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm thông qua m...

An toàn truyền máu là quá trình đảm bảo rằng quá trình truyền máu được thực hiện một cách an toàn, nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm thông qua máu như HIV, vi-rút viêm gan, vi-rút viêm não Nhật Bản, và nhiều bệnh khác. An toàn truyền máu bao gồm việc kiểm tra nhanh và đáng tin cậy của máu được truyền, kiểm tra các nạn nhân truyền máu và những người cung cấp máu, và tuân thủ các quy định về vệ sinh và an toàn trong quá trình truyền máu.
An toàn truyền máu bao gồm các biện pháp và quy định nhằm đảm bảo rằng máu được sử dụng trong quá trình truyền máu là an toàn và không gây nguy cơ lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm.

Các biện pháp chính để đảm bảo an toàn truyền máu bao gồm:

1. Quản lý và kiểm soát nguồn cung cấp máu: Đầu tiên, việc có một nguồn cung cấp máu an toàn và đáng tin cậy là rất quan trọng. Các quy định và tiêu chuẩn quốc tế như Quy tắc 5 mạnh của WHO được áp dụng để đảm bảo máu được thu thập từ người hiến máu không bị nhiễm bệnh. Việc kiểm tra y tế, xét nghiệm máu và tiến hành phỏng vấn kỹ lưỡng với người hiến máu là những biện pháp để loại trừ các nguy cơ nhiễm bệnh. Ngoài ra, việc kiểm soát và theo dõi các nhà cung cấp máu và các cơ sở hiến máu cũng là rất quan trọng.

2. Xét nghiệm máu: Tất cả các đơn vị máu được hiến tặng cần được xét nghiệm một cách đáng tin cậy để phát hiện các bệnh truyền nhiễm như HIV, vi-rút viêm gan B và C, sự nhiễm trùng vi-rút Zika, và nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Cần có những tiêu chuẩn xét nghiệm chính xác và đáng tin cậy để đảm bảo máu được loại trừ nếu có bất kỳ nguy cơ nhiễm bệnh nào.

3. Khử trùng và vệ sinh: Các cơ sở hiến máu cần tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh và quy trình khử trùng để đảm bảo máu được giữ trong môi trường sạch và không bị nhiễm khuẩn trước khi truyền cho bệnh nhân. Các dụng cụ và thiết bị liên quan đến quá trình truyền máu cũng cần được vệ sinh và khử trùng đúng quy trình.

4. Đào tạo và giám sát: Việc đào tạo đầy đủ và định kỳ cho những người tham gia trong quá trình truyền máu là cần thiết để đảm bảo họ hiểu và tuân thủ các quy định về an toàn. Đồng thời, giám sát và đánh giá định kỳ cũng rất quan trọng để đảm bảo việc thực hiện an toàn truyền máu.

An toàn truyền máu là một phần quan trọng trong y tế công cộng và là đảm bảo sự an toàn và chất lượng của quá trình truyền máu từ người hiến máu đến bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "an toàn truyền máu":

Đánh giá kiến thức và thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng trước và sau tập huấn tại các khoa hệ nội Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 4 - Trang 70-76 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng trước và sau tập huấn tại các khoa hệ nội Bệnh viện Đakhoa tỉnh Thái Bình và xác định một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp một nhóm có so sánh trước sau cho 43 điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình về kiến thức, thực hành an toàn truyền máu từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2019. Kết quả: Kiến thức về an toàn truyền máusau tập huấn có 81,4% điều dưỡngbiết nguyên tắc truyền máu, tuy nhiên vẫn còn 65,1% điều dưỡngkhông biết được Hệ nhóm máu quan trọng nhất trong thực hành truyền máu và gần 50% không nhận biết được Kháng nguyên-kháng thể hệ nhóm máu ABO. Đối với kiến thứcvề điều kiện bảo quản máu và chế phẩm máu có trên 90% điều dưỡngnhận biết được các dấu hiệu túi máu đảm bảo điều kiện truyền máu nhưng chỉ Có 58% điều dưỡngbiết việc cần làm khi TM với tốc độ nhanh và khối lượng lớn, sau tập huấn tỷ lệ này đạt 67,4%. Đối với kiến thức về tai biến truyền máu vẫn còn trên 30% điều dưỡng không biết các tai biến của truyền máu sau tập huấn. Về thực hành, điểm thực hành trung bình của điều dưỡngvề quy trình truyền máu trước và sau tập huấn đều đạt trên 35 điểm. Nghiên cứu không tìm được yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng. Kết luận: Trước tập huấn có 60,5% điều dưỡngcó kiến thức đạt về an toàn truyền máu, sau tập huấn tỷ lệ này là 67,4%. Về thực hành trước tập huấn có 86% điều dưỡngđạt, sau tập huấn có 95,3% điều dưỡng đạt. Không tìm được yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành an toàn truyền máucủa điều dưỡng
#Kiến thức #thực hành #an toàn truyền máu
TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG TĂNG CLO MÁU Ở BỆNH NHÂN SỐC NHIỄM TRÙNG TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến tình trạng tăng clo máu ở bệnh nhânsốc nhiễm trùng điều trị tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng vàphương pháp nghiên cứu: Mô tả hồi cứu và tiến cứu, bao gồm 94 bệnh nhân được chẩn đoán sốcnhiễm trùng tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương. Theo dõi đặc điểm lâm sàng,cận lâm sàng, lượng dịch và loại dịch truyền, thu thập giá trị clo máu trong 3 ngày đầu. Xác địnhtỷ lệ bệnh nhân tăng clo máu và các yếu tố liên quan đến tình trạng tăng clo máu ở các bệnhnhân sốc nhiễm trùng. Kết quả: Nghiên cứu trên 94 bệnh nhân được chẩn đoán sốc nhiễm trùngcó tuổi trung vị là 14,5, tỷ lệ nam là 56,4%, tỷ lệ tử vong là 25,5%. Tỷ lệ tăng clo trong 3 ngày đầulà 48,9%, trong đó tỷ lệ trong ngày đầu tiên, ngày thứ 2 và ngày thứ 3 lần lượt là 18,9%, 35,1%và 22,1%. Lượng muối đẳng trương được dùng để hồi sức trong ngày đầu tiên của nhóm tăngclo cao hơn nhóm không tăng clo (50,57 ml/kg và 23,66 ml/kg, p=0,006), có mối tương quanđồng biến giữa lượng muối đẳng trương được dùng trong ngày đầu tiên với nồng độ clo máungày 2 và ngày 3 với hệ số tương quan lần lượt là 0,409 và 0,246. Nhóm bệnh nhân tăng clo cótuổi trung bình thấp hơn nhóm không tăng clo. Tiền sử đẻ non cũng là yếu tố làm tăng nguy cơtăng clo máu với OR = 4,714 (1,221-18,201, p=0,016). Phân tích đa biến chỉ có truyền một lượnglớn dịch muối đẳng trương và tiền sử đẻ non là những yếu tố nguy cơ độc lập làm tăng clo máu.Kết luận: Tăng clo máu là biến chứng thường gặp trên bệnh nhân sốc nhiễm trùng sau hồi sức.Truyển một lượng lớn dịch muối đẳng trương trong ngày đầu và tiền sử đẻ non là những yếu tốliên quan đến tăng clo máu.
#Sốc nhiễm trùng #tăng clo máu #toan chuyển hóa tăng clo máu do dịch truyền
Đánh giá thực trạng công tác an toàn truyền máu tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng công tác an toàn truyền máu tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ tháng 8/2018 đến tháng 05/2019.Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Các hoạt động truyền máu tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ tháng 8/2018 đến tháng 05/2019, nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng phiếu điều tra.Kết quả: Nghiên cứu 162 lần chỉ định truyền máu, còn có chỉ định truyền máu chưa hợp lý: Chỉ định truyền khối hồng cầu cho bệnh nhân không phẫu thuật (Hồng cầu: 3,2 ± 0,8 (T/l); huyết sắc tố: 90,1 ± 20,6 (g/l); hematocrit: 0,272 ± 0,058 (l/l)).Kiến thức chung về truyền máu của bác sỹ tương đối tốt, tuy nhiên kiến thức về truyền máu an toàn miễn dịch ở nhiều bác sỹ còn chưa tốt, chỉ có 13/30 (43,3%) bác sỹ trả lời đúng.Kiến thức chung an toàn truyền máu của điều dưỡng còn hạn chế, có 3/10 câu hỏi có tỷ lệ trả lời đúng dưới 50%. Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất là 89,8% ở câu hỏi về tỷ lệ nhóm máu Rh (+) tại Việt Nam và các biện pháp đảm bảo an toàn truyền máu. Đặc biệt câu hỏi về người cho máu an toàn nhất chỉ có 14/49 (28,6%) điều dưỡng trả lời đúng.Kiến thức và thực hành của điều dưỡng về an toàn truyền máu còn hạn chế. Có 14/49 (28,6%) điều dưỡng trả lời đúng ở câu hỏi về nhiệt độ bảo quản và hạn sử dụng của túi máu. Câu hỏi về thời gian từ khi túi máu được lấy ra khỏi tủ bảo quản đến khi truyền xong có 20/49 (40,8%) điều dưỡng trả lời đúng.Kết luận: Việc truyền máu tại Bệnh viện thực hiện theo đúng quy trình truyền máu lâm sàng của Thông tư 26 - Bộ Y tế năm 2013. Còn có chỉ định truyền khối hồng cầu chưa hợp lý cho bệnh nhân không phẫu thuật.- Kiến thức về an toàn truyền máu của bác sỹ tương đối tốt, tuy nhiên kiến thức về truyền máu an toàn miễn dịch ở nhiều bác sỹ còn chưa tốt. Kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng còn hạn chế.
#An toàn truyền máu
26. KHẢO SÁT KIẾN THỨC VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện Phổi Trung ương năm 2022. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Nghiên cứu thực hiện đối với 246 điều dưỡng đang làm việc tại 15 khoa lâm sàng của bệnh viện Phổi Trung ương cho thấy: 82 % trả lời đúng toàn bộ 10 câu hỏi kiến thức về an toàn truyền máu (ATTM). Nhiệt độ để bảo quản khối hồng cầu có 96% người trả lời chính xác. Thời gian cho phép để truyền huyết tương sau khi phá đông có 3% trả lời chưa đầy đủ. 97% trả lời đúng các tai biến có thể xảy ra trong quá trình truyền máu. Yếu tố nguy gây mất an toàn trong truyền máu có 5% kiểm tra chưa đầy đủ thông tin về giao nhận máu. Xử lý chưa đúng khi có bất thường trong truyền máu chiếm 2%. Kết luận: Kiến thức về ATTM một số điều dưỡng còn hạn chế. Vì vậy cần thường kỳ tập huấn kiến thức chuyên môn về an toàn truyền máu.
#Kiến thức #an toàn truyền máu #Điều dưỡng viên.
Cải thiện An toàn trong Chăm sóc Sức khỏe: Vượt ra ngoài Các Tình trạng Thoái hóa Bệnh viện Thông thường Dịch bởi AI
Current Treatment Options in Pediatrics - Tập 5 - Trang 183-196 - 2019
Những nỗ lực nâng cao an toàn bệnh nhân chủ yếu tập trung vào việc giảm thiểu các sự kiện được gọi chung là tình trạng thoái hóa bệnh viện (HACs). Những sự kiện này bao gồm các sự kiện liên quan đến thiết bị như nhiễm trùng huyết liên quan đến đường truyền trung tâm và nhiễm trùng đường tiết niệu liên quan đến catheter, giảm hoạt động và tổn thương do áp lực, các nhiễm trùng khác mắc phải trong bệnh viện, té ngã và tái nhập viện. Bài tổng quan này sẽ thảo luận về nguyên nhân gây hại ngoài các HAC truyền thống. Các tác giả hy vọng nâng cao nhận thức rằng để đạt được những giảm thiểu tiếp theo trong các sự kiện gây hại cho bệnh nhân, các bác sĩ phải đóng vai trò ngày càng tích cực trong các nỗ lực cải thiện. Lỗi chẩn đoán là một nguồn gây hại cho bệnh nhân đáng kể ở tất cả các lứa tuổi và bối cảnh chăm sóc sức khỏe. Tổn thương thận mắc phải trong bệnh viện xảy ra ở trẻ em, có thể dẫn đến suy thận mãn tính và có thể được giảm thiểu bằng cách hạn chế việc sử dụng các loại thuốc độc hại cho thận và theo dõi mức creatinine ở những bệnh nhân bị phơi nhiễm. Việc áp dụng các thực hành truyền máu hồng cầu đỏ hạn chế giúp giảm thiểu sự gây hại liên quan đến truyền máu bằng cách giảm số lượng ca tiếp xúc. Các giảm thiểu tiếp theo trong sự gây hại cho bệnh nhân sẽ cần sự tham gia tích cực của các bác sĩ và các nhà cung cấp khác để hiểu cách mà thói quen thực hành và các hệ thống mà chúng ta hoạt động góp phần vào sự gây hại và thực hiện các chiến lược mang lại thay đổi trong cách chúng ta hoạt động như cá nhân, trong các nhóm và trong các hệ thống. Hầu như không thể hy vọng rằng việc tiếp tục tập trung vào các dự án cải thiện theo từng dự án (HACs) sẽ giảm thiểu đáng kể các sự kiện gây hại.
#An toàn bệnh nhân #tình trạng thoái hóa bệnh viện #lỗi chẩn đoán #tổn thương thận #thực hành truyền máu.
Mô hình phản ứng truyền máu bất lợi tại một trung tâm điều trị thứ cấp ở Bắc Ấn Độ: Một bước tiến tới hệ thống giám sát truyền máu Dịch bởi AI
Indian Journal of Hematology and Blood Transfusion - Tập 33 - Trang 248-253 - 2016
Truyền máu và các sản phẩm máu là một con dao hai lưỡi, do đó cần được sử dụng một cách thận trọng. Mục tiêu chính của Chương trình Giám sát Truyền máu tập trung là cải thiện độ an toàn của quá trình truyền máu. Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ phản ứng truyền máu bất lợi (ATRs) ở những người nhận máu và các thành phần máu. Một nghiên cứu tiền khả thi đã được thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015. Các ATR được báo cáo cho Khoa Truyền máu đã được ghi nhận và phân tích dựa trên các đặc điểm lâm sàng và các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Trong thời gian nghiên cứu, đã có 25.099 đơn vị máu và các thành phần máu được truyền và 100 ATR (0.40%) đã được báo cáo. Tỷ lệ phản ứng truyền máu không hemolytic sốt (FNHTR) cao nhất (73%), tiếp theo là các phản ứng dị ứng (24%), nhiễm trùng huyết do vi khuẩn (1%), hạ huyết áp do thuốc ức chế ACE (1%) và phản ứng truyền máu hemolytic cấp tính (AHTR) (1%). Trong số tất cả các ATR đã báo cáo, 76% xảy ra với hồng cầu lắng, 15% xảy ra với máu toàn phần, trong khi truyền tiểu cầu và huyết tương tươi đông lạnh chịu trách nhiệm về 8% và 1%, tương ứng. Phần lớn các phản ứng là FNHTR, tiếp theo là các phản ứng dị ứng. Việc báo cáo tất cả các sự kiện bất lợi và giáo dục y tế liên tục cho nhân viên y tế và nhân viên kỹ thuật sẽ giúp củng cố hệ thống giám sát truyền máu.
#Chuyển máu; Phản ứng chuyển máu bất lợi; Giám sát chuyển máu; An toàn truyền máu; Hệ thống giám sát
Phân tích kiến thức và thực hành an toàn truyền máu trên người nhiễm HIV/AIDS qua thi tay nghề điều dưỡng tại Bệnh viện Nhân Ái, năm 2020
Mở đầu: An toàn truyền máu được đảm bảo là dựa vào nguồn máu cung cấp có chất lượng và việc sử dụng máu trong lâm sàng hợp lý. Tại các cơ sở điều trị, công việc truyền máu thường do điều dưỡng đảm nhận, do đó, người điều dưỡng giữ vai trò quan trọng trong công việc thực hiện truyền máu an toàn. Mục tiêu: Mô tả kiến thức và thực hành của điều dưỡng về an toàn truyền máu trên người nhiễm HIV/AIDS và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Nhân Ái. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 122 điều dưỡng chăm sóc người bệnh HIV/AIDS tham gia thi tay nghề tại bệnh viện năm 2020. Kết quả: Kiến thức chung trong an toàn truyền máu của điều dưỡng chiếm tỷ lệ 77.8% và 87.7% là tỷ lệ điều dưỡng thực hành chung đạt trong an toàn truyền máu. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm kiến thức (p < 0.05) trong an toàn truyền máu với đặc điểm chung của điều dưỡng tại bệnh viện. Mối liên quan không có ý nghĩa thống kê (p > 0.05) giữa điểm kiến thức với điểm thực hành trong an toàn truyền máu của điều dưỡng tại bệnh viện.
#kiến thức #thực hành #truyền máu #HIV/AIDS
Sự suy yếu tế bào cơ trơn mạch máu toàn thân trong bệnh lý động mạch não tự chủ di truyền với nhồi máu dưới vỏ và bệnh bạch cầu não Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 89 - Trang 500-512 - 1995
Bệnh lý động mạch não tự chủ di truyền với nhồi máu dưới vỏ và bệnh bạch cầu não (CADASIL) được đặc trưng bởi một dạng bệnh lý mạch máu não không xơ cứng và không amiloid, chủ yếu ảnh hưởng đến các động mạch nhỏ xâm nhập vào chất trắng. Trong các mạch máu não của hai bệnh nhân mắc CADASIL, những đốm bất thường của vật liệu osmiophilic hạt đã được mô tả gần đây. Ở đây, chúng tôi báo cáo sự phát hiện vật liệu osmiophilic hạt tương tự trong các thành mạch của các mẫu sinh thiết cơ và da lấy từ một phụ nữ 54 tuổi thuộc một gia đình mắc CADASIL, người đã mắc chứng sa sút trí tuệ dưới vỏ với bệnh bạch cầu não được thể hiện trên hình ảnh thần kinh. Khám nghiệm sau khi tử vong tiết lộ những thay đổi của thành mạch ở tất cả các cơ quan chủ yếu dẫn đến tổn thương não. Nghiên cứu siêu cấu trúc cho thấy sự hủy hoại của các tế bào cơ trơn mạch máu (VSMC) và vật liệu osmiophilic hạt đã được tìm thấy trong mẫu sinh thiết cơ và da của bệnh nhân này. Cả hai thay đổi này đều được tìm thấy trong toàn bộ hệ động mạch. Những phát hiện của nghiên cứu này chỉ ra rằng CADASIL là một bệnh lý mạch máu toàn thân liên quan đến VSMC động mạch và rằng các tổn thương khác nhau ở từng cơ quan và thành mạch, tùy thuộc vào cấu trúc vi mô của chúng. Hơn nữa, nó nhấn mạnh rằng các mẫu sinh thiết da và cơ có thể hữu ích cho việc chẩn đoán và nghiên cứu về CADASIL.
#CADASIL #động mạch não #bệnh bạch cầu não #tế bào cơ trơn mạch máu #sinh thiết
Tối ưu hóa bầy kiến cho lập lịch dự án có giới hạn về tài nguyên Dịch bởi AI
IEEE Transactions on Evolutionary Computation - Tập 6 Số 4 - Trang 333-346 - 2002
Bài báo trình bày một phương pháp tối ưu hóa bầy kiến (ACO) dành cho vấn đề lập lịch dự án có giới hạn về tài nguyên (RCPSP). Nhiều tính năng mới thú vị cho ACO nói chung đã được đề xuất và đánh giá. Cụ thể, việc sử dụng kết hợp hai phương pháp đánh giá pheromone bởi các con kiến để tìm ra giải pháp mới, sự thay đổi ảnh hưởng của các quy tắc hiển thị lên quyết định của các con kiến trong quá trình thực hiện thuật toán và tùy chọn mà một con kiến tinh hoa quên đi giải pháp tốt nhất đã tìm thấy, đã được nghiên cứu. Chúng tôi đã kiểm tra thuật toán ACO trên một bộ các bài toán chuẩn lớn từ Thư viện Lập lịch Dự án. So với một số heuristics khác cho RCPSP, bao gồm thuật toán di truyền, làm nguội giả, tìm kiếm tabu và các phương pháp lấy mẫu khác, thuật toán của chúng tôi cho kết quả tốt nhất trung bình. Đối với gần một phần ba số bài toán chuẩn không được biết đến với giải pháp tối ưu trước đó, thuật toán đã có thể tìm ra các giải pháp tốt nhất mới.
#Tối ưu hóa bầy kiến #Thuật toán lập lịch #Kiểm tra benchmark #Thuật toán di truyền #Làm nguội giả #Phương pháp lấy mẫu #Thư viện #Vấn đề NP-khó #Phương pháp lặp
Thực trạng kiến thức, thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trước và sau tập huấn từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2019 về kiến thức và thực hành an toàn truyền máu của 43 điều dưỡng - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy rằng điều dưỡng có nhận thức về việc phát hiện các tai biến truyền nhầm nhóm máu, không sử dụng đơn vị máu có dấu hiệu bất thường, nguyên nhân gây tai biến truyền máu cả trước và sau tập huấn có tỷ lệ cao (93,5%, 95%), nhận thức của điều dưỡng về hệ nhóm máu quan trọng nhất trong thực hành an toàn truyền máu cả trước và sau tập huấn đạt tỷ lệ không cao (25,6%, 34,9%). Về thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng, bước định nhóm máu tại giường bệnh đạt tỷ lệ cao cả trước và sau tập huấn (97,7%, 100%), việc điều dưỡng đối chiếu giữa người bệnh - đơn vị máu - phiếu lĩnh máu đạt tỷ lệ cao (88,4%, 100%). Bước kiểm tra túi máu, lắc nhẹ túi máu trước khi tâp huấn còn 27,9% điều dưỡng không thực hiện trước tập huấn và sau tập huấn tỷ lệ này chỉ còn 2,3%. Kết luận: Qua nghiên cứu 43 điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình về kiến thức, thực hành an toàn truyền máu chúng tôi thấy: Về kiến thức chung của điều dưỡng: Trước tập huấn đạt 60,5%; sau tập huấn đạt 67,4%; về thực hành của điều dưỡng: Tỷ lệ điều dưỡng thực hiện an toàn truyền máu trước tập huấn là 86%; sau tập huấn là 95,3%.
#Kiến thức #thực hành an toàn truyền máu #điều dưỡng #Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2